2 Động Thái Của Việt Nam Khiến Trung Quốc Bốc Hoả


Lực lượng bảo vệ bờ biển Việt Nam sẽ tổ chức cuộc tập trận đầu tiên với Philippines. Truyền thông Philippines đã đăng tải tin tức này vào ngày 2 tháng 8. Theo đó, tàu bảo vệ bờ biển Việt Nam 8002 đang trên đường đến Philippines để tham gia cuộc tập trận bảo vệ bờ biển đầu tiên giữa hai nước láng giềng. Cả hai đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông. Hà Nội đã thông báo: Tàu CSB 002 nặng 2400 tấn đã rời miền Trung Việt Nam vào chiều thứ tư và dự kiến sẽ đến Manila vào ngày 5 tháng 8. Lực lượng bảo vệ bờ biển Việt Nam cũng đã cho biết trong một tuyên bố như vậy, dự kiến tàu sẽ ở lại đó cho đến ngày 9 tháng 8 với thủy thủ đoàn Việt Nam tham gia các cuộc tập trận chung, bao gồm tìm kiếm cứu nạn, phòng chống cháy nổ và an toàn hàng hải, cùng với lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines. Hai bên sẽ cung cấp đào tạo về ứng phó với các tình huống khác nhau trên vùng biển quốc tế. Truyền thông Việt Nam đã đưa tin như vậy, mặc dù không cung cấp thông tin chi tiết. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một tàu bảo vệ bờ biển Việt Nam tới Philippines, cũng như là cuộc tập trận đầu tiên giữa các lực lượng hiện tại. Trung Quốc chưa bình luận về cuộc tập trận Philippines-Việt Nam, nhưng đây là một tình huống khá bất ngờ đối với Bắc Kinh, mà nói việc Việt Nam và Philippines tổ chức các cuộc tập trận chung, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông, đã đặt ra nhiều thách thức và rủi ro cho Trung Quốc.

Trước tiên, hãy bàn về các thách thức quân sự. Các cuộc tập trận chung giúp Việt Nam và Philippines cải thiện khả năng phối hợp và tác chiến, từ đó nâng cao năng lực quân sự của hai quốc gia này trong việc đối phó với Trung Quốc. Các cuộc tập trận có thể bao gồm chuyển giao kiến thức và kỹ năng quân sự, giúp cả hai quốc gia tăng cường năng lực quân sự, từ đó đối phó hiệu quả hơn với bất kỳ mối đe dọa nào từ phía Trung Quốc. Hơn nữa, tập trận chung có thể khuyến khích sự tham gia hoặc hỗ trợ từ các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia có quan hệ quân sự với Việt Nam và Philippines như Mỹ, Nhật Bản và Úc. Sự tham gia của các quốc gia này có thể làm gia tăng áp lực quân sự lên Trung Quốc. Động thái này cho thấy liên minh quân sự chặt chẽ hơn có thể dẫn đến việc Việt Nam và Philippines nhận được sự hỗ trợ về vũ khí và thiết bị quân sự từ các đồng minh, làm thay đổi cân bằng lực lượng trong khu vực. Mặc dù vậy, nó cũng có những rủi ro nhất định, chẳng hạn như việc tăng cường hoạt động quân sự ở Biển Đông làm gia tăng nguy cơ va chạm không mong muốn giữa lực lượng quân sự của các nước, có thể dẫn đến xung đột vũ trang. Vì các cuộc tập trận có thể dẫn đến chiến thuật leo thang căng thẳng từ cả hai phía, làm gia tăng nguy cơ chiến tranh cục bộ hoặc xung đột khu vực. Trong bối cảnh này, Trung Quốc sẽ phải điều chỉnh chiến thuật và chiến lược quân sự của mình để đối phó với sự gia tăng khả năng quân sự của Liên Minh Việt Nam-Philippines, có thể bao gồm việc triển khai thêm lực lượng hoặc thay đổi kế hoạch hành động.

Thứ hai, hãy bàn về thách thức ngoại giao. Các cuộc tập trận chung có thể thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và Philippines và có thể kéo theo sự ủng hộ của các quốc gia khác trong khu vực. Điều này có thể làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực ASEAN, đồng thời sự tăng cường hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Philippines có thể dẫn đến sự gia tăng áp lực quốc tế đối với Bắc Kinh, yêu cầu họ phải giảm ớt các hành động gây hấn ở Biển Đông.

Thứ ba, về thách thức kinh tế. Căng thẳng quân sự leo thang có thể dẫn đến các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc các biện pháp hạn chế thương mại từ phía cộng đồng quốc tế, gây tổn hại cho nền kinh tế Trung Quốc. Các quốc gia trong khu vực có thể e ngại về sự bất ổn và giảm bớt các hoạt động kinh doanh và đầu tư tại Trung Quốc, chuyển hướng sang các thị trường an toàn hơn.

Thứ tư, về thách thức chính trị nội bộ. Các hành động quân sự hoặc phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc có thể dẫn đến sự bất mãn và lo ngại trong nước về nguy cơ xung đột quân sự. Điều này có thể tạo ra áp lực đối với chính quyền Trung Quốc trong việc giải quyết tình hình một cách khôn khéo. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh có thể đối mặt với sự chia rẽ nội bộ về cách đối phó với tình hình, với một số ủng hộ biện pháp cứng rắn và những người khác ủng hộ các giải pháp ngoại giao hơn.

Thứ năm, về rủi ro về an ninh. Các cuộc tập trận chung có thể làm gia tăng nguy cơ va chạm quân sự không mong muốn, dẫn đến xung đột leo thang. Điều này đặc biệt nguy hiểm trong khu vực có nhiều tranh chấp và lực lượng quân sự thường xuyên hiện diện. Trung Quốc có thể phải đối mặt với các hoạt động gián điệp và chiến tranh mạng từ phía Việt Nam và Philippines, cũng như từ các đồng minh của họ. Nếu cả Việt Nam và Philippines đều có thể tăng cường khả năng tấn công và phòng thủ mạng thông qua các cuộc tập trận chung, điều này có thể dẫn đến sự gia tăng các cuộc tấn công mạng nhằm vào Trung Quốc, bao gồm cả các cơ sở quân sự và hạ tầng quan trọng. Đồng thời, Trung Quốc có thể đối mặt với các chiến dịch thông tin và tuyên truyền từ phía Việt Nam và Philippines nhằm làm giảm uy tín và tạo ra sự bất ổn nội bộ. Việt Nam và Philippines có thể cải thiện khả năng tình báo của họ thông qua hợp tác quân sự, bao gồm việc sử dụng công nghệ giám sát và thu thập thông tin hiện đại.

Như chúng ta đã biết, cả Việt Nam và Philippines đều có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông. Việc hợp tác quân sự giúp họ thể hiện sự đoàn kết và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình. Thêm nữa, hai nước có lợi ích hàng hải quan trọng ở Biển Đông, bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên và tuyến đường hàng hải quan trọng. Các cuộc tập trận chung cũng giúp bảo vệ những lợi ích này. Trên thực tế, Việt Nam và Philippines vốn cũng có những tranh chấp trong Biển Đông, nhưng khi đối đầu với một gã khổng lồ phương Bắc với tham vọng nuốt chửng Biển Đông thì đương nhiên việc các quốc gia nhỏ hợp tác đa phương với nhau và cùng nhìn về một đối thủ chung là một điều tất yếu. Sở dĩ Việt Nam và Philippines có động thái này cũng gửi thông điệp rõ ràng tới Trung Quốc rằng họ sẽ không khoan nhượng trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia của mình, và họ muốn dùng các cuộc tập trận chung để tạo sức ép lên Trung Quốc, buộc họ phải xem xét lại hành động gây hấn và có thể tìm kiếm giải pháp hòa bình hơn.

Khách quan mà nói, Trung Quốc có nhiều phương tiện và chiến lược để đối phó với sự hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Philippines. Xét về ưu thế quân sự của Trung Quốc, nước này có lực lượng quân sự lớn và hiện đại hơn nhiều so với Việt Nam và Philippines. Trung Quốc có thể sử dụng ưu thế này để đe dọa hoặc tạo áp lực lên hai quốc gia này, bao gồm việc triển khai tàu chiến, máy bay và các thiết bị quân sự tiên tiến ở Biển Đông. Trung Quốc có thể tăng cường hiện diện quân sự tại các khu vực tranh chấp để thể hiện sức mạnh và ngăn chặn các hoạt động quân sự của Việt Nam và Philippines. Đặc biệt, Bắc Kinh có thể sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế, hạn chế thương mại hoặc cắt giảm đầu tư vào Việt Nam và Philippines nhằm gây tổn thương kinh tế và buộc hai nước này phải thay đổi lập trường. Trung Quốc có thể cố gắng chia rẽ ASEAN bằng cách tăng cường quan hệ ngoại giao và kinh tế với các nước thành viên khác, làm suy giảm sự đoàn kết của khối này trong vấn đề Biển Đông. Chưa kể đến việc Bắc Kinh có thể sử dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tiến hành chiến tranh thông tin, bao gồm tuyên truyền và các chiến dịch thông tin sai lệch nhằm làm giảm uy tín của Việt Nam và Philippines cũng như là gây chia rẽ nội bộ. Trung Quốc có thể tăng cường nỗ lực tuyên truyền quốc tế để làm cho các yêu sách và hành động của mình ở Biển Đông trở nên hợp pháp và hợp lý trong mắt cộng đồng quốc tế.

Mặc dù Trung Quốc có nhiều phương tiện và chiến lược để gây áp lực và đối phó với sự hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Philippines, nhưng liệu có thể đè bẹp hoàn toàn sự hợp tác này hay không thì lại là một thách thức lớn. Bởi vì Việt Nam và Philippines có thể nhận được sự hỗ trợ từ các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản hay Úc. Sự hỗ trợ này có thể bao gồm cả quân sự, kinh tế và ngoại giao, làm cho việc Trung Quốc cô lập hai quốc gia này trở nên khó khăn hơn. Yếu tố quan trọng là cả hai nước đều có lực lượng quân sự riêng và có khả năng tự vệ và đều là những đội quân thiện chiến, sẵn sàng đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Sự đoàn kết và quyết tâm của nhân dân và chính phủ hai nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia cũng là một yếu tố quan trọng.

Một yếu tố là về mặt pháp lý. Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực PCA năm 2016 liên quan đến vụ kiện của Philippines với Trung Quốc về Biển Đông đã bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Việt Nam và Philippines có thể sử dụng phán quyết này để cùng cố lập trường của mình trong tranh chấp, từ đó đạt được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Điều này làm cho việc Trung Quốc đè bẹp sự hợp tác của hai nước trở nên khó khăn hơn.

Một điểm quan trọng không thể bỏ qua đó là tình hình nội bộ của Trung Quốc. Trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm lại, thiên tai, nhân họa và bất ổn xã hội đang tăng cao, rồi nội bộ lục đục, đấu đá nhau, bối cảnh này không cho phép Trung Quốc kích nổ xung đột ở khu vực vì tổn thất của Trung Quốc là không thể lường trước được. Nếu như làm căng ở Biển Đông mang lại tổn thất không thể lường trước được, không có nghĩa là các quốc gia sẽ lờ đi chiêu mềm nắn rắn của Trung Quốc. Thay vào đó, họ phải cương quyết và làm tới cùng để chống lại chiến thuật vùng xám, chỉ vậy mới có thể bảo vệ được lãnh hải của mình ở Biển Đông.

Việt Nam hợp tác với đối thủ sát xườn của Trung Quốc, Ấn Độ. Ngày 2 tháng 8, tin tức đưa tin Thủ tướng Việt Nam ông Phạm Minh Chính đã đến New Delhi vào cuối ngày thứ ba tuần này theo lời mời của Tổng thống Ấn Độ ông Narendra Modi. Đây là chuyến đi đầu tiên của ông với tư cách là người đứng đầu chính phủ Việt Nam và đã kết thúc vào tối thứ năm. Ông Phạm Minh Chính trở thành Thủ tướng Việt Nam đầu tiên thăm Ấn Độ trong một thập kỷ. Theo báo cáo của Nicki, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và người đồng cấp Việt Nam Phạm Minh Chính đã có cuộc hội đàm sâu rộng vào ngày 3 tháng 8, tập trung vào việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, thương mại và kinh doanh cùng các vấn đề khác.

Việc Ấn Độ và Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng có nhiều ý nghĩa quan trọng, phản ánh cả nhu cầu chiến lược của cả hai nước và tình hình địa chính trị khu vực. Ý nghĩa thứ nhất đó là củng cố vị thế chiến lược của cả hai nước. Sự hợp tác này giúp Ấn Độ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời giúp Việt Nam củng cố vị thế của mình trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cả Ấn Độ và Việt Nam đều có mối lo ngại về sự bành chướng của Trung Quốc. Hợp tác quốc phòng giúp hai nước tạo ra một đối trọng mạnh mẽ hơn trước ảnh hưởng của Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông và Ấn Độ Dương.

Thứ hai là tăng cường an ninh và ổn định khu vực. Hợp tác giữa hai nước đóng góp vào việc duy trì an ninh hàng hải ở các khu vực trọng yếu như Biển Đông và Ấn Độ Dương, đảm bảo sự tự do hàng hải và an ninh cho các tuyến đường biển quốc tế. Sự hợp tác này cũng bao gồm các hoạt động chống khủng bố, cướp biển và tội phạm xuyên quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh khu vực.

Thứ ba đó là thúc đẩy công nghiệp quốc phòng. Hợp tác quốc phòng mở ra cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ quân sự giữa hai nước. Ấn Độ có thể cung cấp cho Việt Nam các thiết bị quân sự và công nghệ tiên tiến, giúp nâng cao năng lực phòng thủ của Việt Nam. Hợp tác này cũng có thể giúp cả hai nước phát triển ngành công nghiệp quốc phòng nội địa, tạo ra công ăn việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Thứ tư đó là củng cố quan hệ song phương. Việc tăng cường hợp tác quốc phòng giúp xây dựng lòng tin chiến lược giữa hai quốc gia, làm sâu sắc thêm mối quan hệ ngoại giao và đối tác chiến lược. Quan hệ quốc phòng mạnh mẽ giữa Việt Nam và Ấn Độ có thể thúc đẩy sự hợp tác trong các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á.

Thứ năm đó là đóng góp vào sự ổn định toàn cầu. Bằng cách tăng cường hợp tác quốc phòng, Ấn Độ và Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh quốc gia mà còn góp phần vào sự ổn định của khu vực, từ đó đóng góp vào hòa bình và ổn định toàn cầu. Quan hệ quốc phòng mạnh mẽ giữa Ấn Độ và Việt Nam có thể tạo ra một tiền lệ tích cực cho các quốc gia khác trong khu vực, khuyến khích hợp tác quân sự để đối phó với các thách thức an ninh chung.

Thứ sáu đó là tạo cơ hội hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Sự hợp tác quốc phòng có thể kéo theo các cơ hội hợp tác kinh tế và kỹ thuật khác, bao gồm cả việc phát triển cơ sở hạ tầng và các dự án chung khác. Đồng thời, nó cũng tạo ra cơ hội cho việc đào tạo và phát triển nhân lực, nâng cao kỹ năng và năng lực của lực lượng quân đội của cả hai nước.

Nhìn chung, việc Ấn Độ và Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng, từ việc củng cố vị thế chiến lược, tăng cường an ninh khu vực, thúc đẩy công nghiệp quốc phòng đến việc củng cố quan hệ song phương và đóng góp vào sự ổn định toàn cầu. Sự hợp tác này không chỉ phản ánh nhu cầu đối phó với các thách thức an ninh chung mà còn mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thúc đẩy sự phát triển bền vững và hòa bình trong khu vực.

Nếu xét riêng từng nước thì việc Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng đối với Ấn Độ cả về chiến lược, an ninh và kinh tế. Nhờ có hợp tác quốc phòng với Việt Nam, Ấn Độ có thể mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á, một khu vực quan trọng về địa chính trị và kinh tế. Việt Nam là một quốc gia quan trọng trong việc đối trọng với sự bành chướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Chỉ cần kéo Việt Nam về phía mình thì nó cũng đủ giúp Ấn Độ củng cố vị thế của mình trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tạo ra một liên minh mạnh mẽ để đối phó với ảnh hưởng của Trung Quốc. Như chúng ta đã biết, quan hệ trung-ấn hiện nay cũng không hề êm ấm, sự căng thẳng ở biên giới hai nước vẫn tiếp tục nóng dần lên. Cho nên, bước đi này của Ấn Độ cho thấy việc Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng có ý nghĩa quan trọng đối với Ấn Độ trên nhiều phương diện, từ tăng cường vị thế chiến lược, đảm bảo an ninh khu vực, thúc đẩy hợp tác công nghệ và công nghiệp quốc phòng, củng cố quan hệ đối tác, đến ảnh hưởng đến cán cân quyền lực khu vực. Sự hợp tác này không chỉ giúp cả hai quốc gia đối phó với các thách thức chung mà còn góp phần vào việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Quý vị thấy đấy, Việt Nam đang là trung tâm trong mối quan hệ địa chính trị ở Đông Nam Á. Việt Nam hợp tác với Philippines rồi lại hợp tác với Ấn Độ, mà hai quốc gia này thì đều chẳng ưa gì Trung Quốc. Điều này cho thấy ở khu vực này đang hình thành một dạng quan hệ đa phương. Các quốc gia có tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc đang xích lại gần nhau, ngay cả quốc gia nằm ngoài Biển Đông như Ấn Độ nhưng lại có tranh chấp ở biên giới cũng xích lại gần với Việt Nam để đối trọng với Trung Quốc. Một thế trận đối trọng với Trung Quốc đang được hình thành.

Đối với Trung Quốc, mà nói việc Ấn Độ và Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng mang lại nhiều bất lợi cho họ, đặc biệt trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Sự hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Việt Nam tạo ra một đối trọng mạnh mẽ hơn với sức mạnh quân sự và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Điều này có thể làm suy yếu sự thống trị của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông và tạo ra các thách thức đối với tham vọng bành chướng của Bắc Kinh. Hợp tác này có thể làm phức tạp các hoạt động quân sự của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm việc triển khai lực lượng và xây dựng các cơ sở quân sự trên các đảo tranh chấp. Đồng thời, nó có thể thúc đẩy sự hỗ trợ từ các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, tạo ra một mặt trận quốc tế mạnh mẽ hơn để đối phó với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Thậm chí, hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Việt Nam có thể khuyến khích các quốc gia Đông Nam Á khác tăng cường hợp tác với nhau và với các cường quốc ngoài khu vực để đối phó với Trung Quốc.

Xin lưu ý tới chiến lược "Một vành đai, một con đường" (BRI) của Trung Quốc. Hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam có thể cạnh tranh với các dự án phát triển hạ tầng của Trung Quốc trong khu vực, làm giảm ảnh hưởng của chiến lược BRI. Ví dụ, Trung Quốc đang đầu tư vào các cảng và tuyến đường bộ ở Myanmar, bao gồm dự án cảng Ki và tuyến đường bộ nối Myanmar với Trung Quốc qua khu vực Tây Nam Trung Quốc. Ấn Độ và Việt Nam có thể phát triển các dự án hạ tầng thay thế tại Myanmar, bao gồm việc cải thiện kết nối qua các cảng khác hoặc các tuyến đường giao thông thay thế, làm giảm sự phụ thuộc của Myanmar vào các dự án của Trung Quốc.

Hay là Trung Quốc đã đầu tư lớn vào cảng Hambantota ở Sri Lanka và đường cao tốc nối với cảng này, tạo ra một tuyến đường quan trọng trong chiến lược BRI. Việc Ấn Độ và Việt Nam hợp tác có thể bao gồm việc phát triển các dự án hạ tầng khác ở Sri Lanka hoặc hỗ trợ các dự án kết nối khu vực khác, từ đó giảm sự phụ thuộc của Sri Lanka vào các dự án Trung Quốc.

Hoặc như Trung Quốc đã đầu tư vào nhiều dự án hạ tầng trong khu vực Trung Á, bao gồm các tuyến đường sắt và đường bộ nằm trong chiến lược BRI. Ấn Độ và Việt Nam có thể hợp tác trong các dự án phát triển hạ tầng kết nối các quốc gia Trung Á với các khu vực khác. Chẳng hạn như phát triển các tuyến đường thương mại qua Iran hoặc Ấn Độ Dương, từ đó cung cấp các lựa chọn thay thế cho các tuyến đường của Trung Quốc.

Ngay cả việc Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động xây dựng và cải tạo các đảo và bãi đá ở Biển Đông, bao gồm các cơ sở quân sự và cảng biển, thì sự hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam có thể bao gồm việc phát triển các dự án hạ tầng hàng hải và cảng biển ở các quốc gia Đông Nam Á khác, nhằm tạo ra các tuyến đường thay thế và giảm sự phụ thuộc vào các cơ sở của Trung Quốc ở Biển Đông.

Kể cả việc Trung Quốc đang đầu tư vào nhiều dự án cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á, bao gồm các tuyến đường sắt cao tốc và các cảng biển, thì hợp tác của hai quốc gia Ấn Độ-Việt Nam có thể bao gồm việc phát triển các dự án kết nối giao thông cho khu vực Đông Nam Á, chẳng hạn như cải thiện các tuyến đường bộ và đường sắt nối liền các quốc gia trong khu vực, từ đó cung cấp các lựa chọn thay thế cho các dự án của Trung Quốc.

Cũng như là việc Trung Quốc đang đầu tư vào các dự án kết nối giữa Nam Á và Đông Á, chẳng hạn như là các tuyến đường giao thông qua Bangladesh, Nepal và Bhutan, thì Ấn Độ và Việt Nam cũng có thể mở rộng đến các dự án hạ tầng trong khu vực Nam Á, làm giảm sự phụ thuộc vào các dự án Trung Quốc và tạo ra các tuyến đường giao thương thay thế.

BRI đang bị thách thức lớn. Sau cú bắt tay của Ấn-Việt, một sự thật không thể chối bỏ đó là để giải quyết vấn đề Biển Đông và chống lại sự bành chướng của Trung Quốc, việc hợp tác đa phương là điều kiện tiên quyết. Mỗi quốc gia trong khu vực cần phải liên kết với nhau thì mới đảm bảo được an ninh và chủ quyền của mình. Khi sự đe dọa đã cận kề, mà họ vẫn bàng quan thì chắc chắn quốc gia đó sẽ mất chủ quyền. Vì Trung Quốc xin lưu ý mọi sự liên kết của các quốc gia trong khu vực đều bởi vì sự ô thái quá của Trung Quốc ở cả Biển Đông và Biển Hoa Đông. 

Please Select Embedded Mode To Show The Comment System.*

Previous Post Next Post

نموذج الاتصال